ÁNH SÁNG LINH ĐIỆN 4

Ánh Sáng Linh Điện (tt)

Light in the Sanctuary - G. Hodson

 

Xem Ánh Sáng Linh Điện các bài trước

Úc và New Zealand
Sau lần viếng thăm Nam Phi mà trong lúc ấy các bức vẽ về deva  được thực hiện, chúng tôi nhận lời mời của bà Clara Cod, khi ấy là Hội trưởng xứ bộ Úc, đến thăm và đi giảng tại đất nước này. Chúng tôi đến vào tháng Tư sau một chuyến đi rất sóng gió, và mau lẹ bắt đầu việc diễn thuyết. Nay chúng tôi phải quan tâm đến sức khỏe của Jane, vì nó làm thay đổi lớn lao đời tôi. Cô có bệnh đa xơ cứng - multiple sclerosis từ năm 1929, mới đầu chỉ nhẹ rồi nặng dần. Tôi làm hết tất cả những gì có thể làm, bằng đủ cách có thể có được ở mỗi nước chúng tôi đến thăm, để cải thiện tình trạng. Úc là nơi vợ tôi phải bỏ không thể đến dự các buổi giảng, chơi dương cầm cho tôi và dự vào đời sống bên ngoài của tôi được nữa. Đây là cú giáng rất, rất là nặng nề cho cả hai chúng tôi.
Chỉ một lúc ngắn sau khi tới Úc, tôi lại nhận được lời chào đón khác của các deva nước này. Nó xẩy ra ở King’s Park trên đồi cao nhìn ra sông Swan rộng ở Perth. Ở đây bạn có thể thấy trọn thành phố và xa hơn nữa tới dãy núi Darling, đằng sau đó là vùng nội địa và phần còn lại của Úc. Một số đông các deva vĩ đại vàng óng hiện ra trên không ở khoàng xa, và cho tôi lời chào quen thuộc, cùng hứa là sẽ có trợ giúp trong vòng khả năng của các ngài, trong chuyến thuyết giảng của tôi. Đây hoàn toàn là kinh nghiệm bất ngờ, và cho tôi thấy lần nữa thực tại của mối liên kết bên trong với loài thiên thần nói chung, mà Thầy Bethelda đã thực sự lập cho tôi. Về sau tôi thấy là mối liên kết ấy luôn có sẵn đó.
Vào lúc này Jane và tôi gặp một hội viên trẻ, cô Sandra Chase. Mẹ cô là nhân viên xã hội tích cực ở Perth, bà lập Chase Homes cho người cao niên mà nay vẫn còn hoạt động. Sandra kết thân với cả hai chúng tôi, và dành tất cả thì giờ cô có với chúng tôi trong thời gian chúng tôi ở Perth.
Ngày nọ cô lưu ý tôi về khả năng càng lúc càng suy giảm của Jane, và hỏi tôi tính sao về việc ấy, vì rõ ràng là tôi không thể tiếp tục đi giảng và đi xa lâu hơn nữa, nếu tôi phải dành cả đời để lo cho Jane. Cô đề nghị là nếu tôi muốn, cô sẽ đến ngay khi có thể được để trông nom Jane. Nào, cô và Jane đã thành bạn thân và tôi thấy đây là đề nghị rất đáng chú ý.  Dầu vậy, chúng tôi đi thuyền tới Adelaide mà chưa có quyết định gì. Rồi khi Sandra được rảnh, Jane gửi điện tín kêu cô đến với gia đình.
Sau đó, trong ba hay bốn năm ở Úc, sức khỏe Jane hoàn toàn hư hoại và nhà tôi không đứng được nữa. Tuy nhiên chúng tôi vẫn đi giảng trọn lục địa này, và cuối cùng ngụ tại The Manor ở Sydney. Tôi làm việc hai năm tại Sydney, là chi trưởng chi bộ Blavatsky. Rồi xứ bộ New Zealand mời tôi sang giảng ở nước đó. Sandra chăm sóc Jane và hai người vui vẻ với nhau. Chúng tôi có một xe Dodge có chỗ cho xe lăn, và với Sandra giúp, có thể chở Jane đi chơi ra ngoài, giảm cảm tưởng tù túng cho cô. Ai ở The Manor cũng hết lòng giúp đỡ và tốt bụng. Nên tôi nhận lời và đi New Zealand ngày 17 - 12, 1940 tới Wellington kịp lúc cho đại hội tổ chức tại Christchurch. Hội trướng Xứ bộ khi ấy là cô Emma Hunt, và tôi bắt đầu một vòng diễn thuyết dài ba tháng ở các thành phố lớn.
Tuy vậy, sức khỏe của Jane bắt đầu xuống dốc mau lẹ, và Sandra gửi điện tín là nếu tôi không trở về, hay nếu Jane  không được mang sang với tôi thì có thể nhà tôi không sống được lâu. Cô thành đau nặng vì cô đơn, bởi từ khi lập gia đình tới giờ vợ tôi chưa hề thực sự xa tôi. Cả hai chúng tôi bị ảnh hưởng sâu đậm khi phải cách biệt nhau. Thể nên cô Hunt tìm được căn nhà ở Epsom, nơi có nhiều hội viên cư ngụ, và Sandra đưa Jane cùng tất cả đồ đạc của chúng tôi lên tầu Monterey. Hai người tới ngụ trong nhà đó trong khi tôi ở xa tại Dunedin.
Tôi về nhà gặp tình trạng nặng nề và sầu não lớn lao. Chuyện suy sụp của Jane thật nghiêm trọng. Nhung y sĩ làm nó ổn định phần nào, và chúng tôi có thể hợp lại chăm lo cho nhà tôi được vài tháng, với cố gắng rất nhiều… Sức khỏe cô tiếp tục hư hại và tới cuối, nhà tôi thấy là chúng tôi không thể làm vậy được nữa, và kêu tôi đưa cô vào nhà dưỡng bệnh, và tôi làm theo. Cô không còn bị đau đớn, và xếp đặt để sống tại một nhà dưỡng bệnh tư nhân, với sự giúp đỡ của tôi và Sandra luôn có đó để phụ khi tôi vắng nhà.
Thế Chiến thứ hai đã bùng nổ và ngăn không cho đi giảng xa nữa dù tôi muốn, tuy sau một năm ở nhà bên cạnh Jane, tôi bắt đầu làm một vòng diễn thuyết cho xứ bộ New Zealand trở lại. Việc ngưng không đi xa cho tôi cơ hội lớn lao để học đầy đủ hơn sách vở vể Theosophy. Tôi đọc hết tất cả những tác phẩm lớn trở lại lần nữa: sách của H.P. Blavatsky và những người tiếp sau bà như A.P. Sinnett và G.R.S. Mead, tôi rất thích sách của họ.
Chuyện này dẫn tới học hỏi sâu hơn huyền bí học, sách về kinh Kabbalah của Do Thái giáo và bài Tarot, và tất cả những tôn giáo thế giới, và đặc biệt ưa thích là ngôn ngữ của biểu tượng. Nên tôi rất cám ơn thời gian này đã cho tôi đào sâu hiểu biết, và có thêm kiến thức về Theosophy.
Có chuyện lý thú xẩy ra qua đó tôi được lôi cuốn vào việc an sinh cho thú vật, điều mà tôi không để ý cho lắm dù Jane rất tích cực với nó, và thường giảng cùng có bài phát thanh khi chúng tôi cùng đi giảng. Báo đăng là có buổi họp cho những ai chú ý về về ăn chay, và tôi tình cờ đọc quảng cáo này, nghĩ rằng New Zealand sẽ là nơi cho chi chủng mới, và đức Bàn Cổ Manu sẽ vui thích với bất cứ việc gì làm thanh bai con người nhờ dinh dưỡng, nên tôi đến dự.
Tôi ngồi ở phía sau, nhưng góp phần khi nào có thể được và chẳng bao lâu tôi được mời lên ghế chủ tọa điều khiển buổi họp, và tôi nhận lời. Có rất nhiều nhiệt tâm nên tôi đề nghị lập hội ăn chay ở New Zealand. Nó được đồng thanh chấp thuận và chúng tôi lập ngay tại đó vào lúc ấy… Tôi được bầu làm chủ tịch, chức vị mà tôi vẫn còn giữ vào lúc soạn sách này (1957).
Khi đi quanh nước giảng cho hội, tôi có thể được nhiều hội viên giúp đỡ, họ tự ý ăn chay và tôi có thể ghi danh nhiều người làm hội viên cho tổ chức mới này. Kết quả là hội lớn mạnh. Những hội viên Theosophy tận tụy họp thành chi nhánh ở các thành phố lớn tại New Zealand, với các nhóm ở chỗ nhỏ hơn. Nó vẫn còn là tổ chức linh hoạt, ra tờ báo hay mỗi ba tháng.
Rồi có một tổ chức về phúc lợi cho loài vật thành hình, theo đuổi ý có tuần lễ thế giới cho phúc lợi của loài vật, là tuần lễ đầu của tháng Mười. Một số người chúng tôi có ý là lập một đoàn thể với đại biểu, hay đại diện thuộc những tổ chức khác nhau cho phúc lợi loài vật, khi ấy chính yếu là ở Aukland, để chào mừng thật rộn ràng hết mức của chúng tôi tuần lễ thế giới này. Từ ý đó sinh ra hội đồng liên hợp những tổ chức phúc lợi cho loài vật, một tổ chức độc đáo về sự hợp tác của những người làm việc cho phúc lợi của loài vật, và cũng vẫn còn tích cực tới hôm nay. Tôi vẫn còn giữ chức chủ tịch.
Tới lúc này sức khỏe của Jane đã ổn định, và chữa trị của y sĩ ở New Zealand làm như chặn được bệnh. Vợ tôi được thoải mái ở nhà dưỡng bệnh và an ổn trong lòng, nên cô nhất định là bây giờ tôi nên nhận nhiều lời mời đi trở lại các nước khác nhau, để làm những vòng thuyết giảng. Sandra có đó làm bạn với cô và lo những gì cô cần. Nên tôi nhận lời, và đi giảng gần như là liên tục cho đến nay (1957), đi Úc, Hoa Kỳ, Canada, Anh, Hòa Lan và Ấn Độ trở lại.
Khi tôi tiếp tục việc này là gặp gỡ công chúng trên khắp thế giới, tìm cách mang sự chỉ dạy của Theosophy đến với họ, qua bài giảng và những lần cố vấn riêng cho khó khăn của họ, tôi thấy kết quả của nó là làm sâu đậm thành niềm tin sâu xa và không lay chuyển của tôi, rằng MTTL là điều thế giới cần nhất. Tôi cảm thấy là nếu chúng ta theo ý muốn, mà vị đại Chân Sư cao cả hồi đầu của cuộc thí nghiệm trong thập niên  1870 và 1880 nêu ra là ‘quảng bá hiểu biết về MTTL’, vấn đề thế giới là sự chia rẽ sẽ được giải quyết, và tim của bao người có nhu cầu về mặt tinh thần, tâm trí và thân xác sẽ được chữa lành; cách ngăn ngừa sự đau khổ sẽ được tỏ cho thấy.
Nên tôi thấy việc chỉ dạy Theosophy như là một sứ mạng quan trọng sâu xa. Càng lúc tôi càng thấy đó là đặc ân và cơ hội vĩ đại, khi đáp lời mời đi các nơi trên thế giới giảng về MTTL.
Cảm nhận này thành sâu đậm và lớn mạnh cho tôi sau khi làm việc ấy trên dưới ba mươi năm, những năm vui thú. Về một nghĩa, chúng đưa tới thành quả tuyệt vời trong một lúc cho tôi - tôi không gọi là ‘tột đỉnh’ vì nó gợi tới sự ‘chấm dứt’ - là lời mời của ông N. Sri Ram, Chánh Hội trưởng hội Theosophy nhận chức Giám đốc Học vụ tại Trường Minh Triết trong hai học kỳ 1953 - 54 và 1954 - 55.
Trường Minh Triết này được thành lập phần lớn nhờ hứng khỏi của ông Jinarajadasa, có ý về một trường đặc biệt nơi mà hội viên của Hội có thể đến ở tại Adyar và cùng nhau học tập, với lợi điểm là có thư viện Adyar và nhiều giảng viên khác nhau tụ lại dưới một giám đốc. Tôi mau lẹ đáp lại lời mời và vui thích điều khiển hai khóa học, mỗi khóa sáu tháng.Vì học viên đến từ nhiều nước và nói nhiều ngôn ngữ khác nhau, tôi bắt buộc phải giản lược phần trình bầy về Theosophy, và làm chúng dễ hiểu hơn.
Tôi có thể đưa vào đây vài kinh nghiệm thú vị, không nhất thiết phải là huyền bí, với các học viên trong giai đoạn này ở Ấn Độ.

Ấn Độ
Xa về phía nam và xinh đẹp là chỗ tên Tiruvannamalai (Tiru có nghĩa là linh thánh), một trung tâm đền đài rất cổ xưa và thiêng liêng ở chân đồi tên Arunachala, được tây phương biết tới nhờ Paul Brunton trong sách của ông tên In Search of Secret India, trong đó ông kể về đền và sự tiếp xúc với vị Maharishi là Shri Ramana Maharishi, người mà tôi sẽ nói thêm về sau. Ngọn đồi được cho là một trong những đồi núi xưa nhất ở Ấn, và từ lâu được xem là đồi rất linh thiêng.
Chữ ‘Arunachala’ có nghĩa ‘ánh sáng soi đường’, được cung hiến cho và được tin là một trung tâm quyền lực của ngôi Ba trong ba ngôi (Phạn ngữ gọi là Trimurti). Ở chân đồi là một đền thờ rất cổ xưa, một trong các cổng lâu đời hơn những cổng khác.
Bên kia đồi là Ashram của Shri Ramana Maharishi mà câu chuyện về ngài rất đáng nói… Ngài thường giảng ở một phòng rộng chỗ ngài có thể nằm trên giường, còn người ta ngồi trên sàn tất cả quanh giường. Người khắp nơi trên thế giới đến như Paul Bruton, ngồi dưới chân ngài và đặt câu hỏi, lắng nghe lời giảng khôn ngoan của ngài về đời sống tinh thần.
Tôi nghe nhiều người biết ngài kể lại, làm chứng cho một đặc điểm của thánh nhân. Bạn không cần nêu ra thắc mắc, chỉ ngồi với ngài và câu trả lời đúng sẽ chẳng sớm thì muộn đến trong đầu, mà không cần câu hỏi hay lời đáp thốt ra. Rất đông người tôn thờ ngài sâu xa, và gọi ngài là vị ‘đại Rishi - Maharishi’.
Tôi có đặc ân là được vào phòng mà Shri Ramana Maharishi ngụ hồi xưa. Gian phòng nhỏ được xem như là đặc biệt linh thiêng, và tôi ngồi đó nơi mà tất cả vật dụng của ngài còn giữ: cây nạng và vài cái bát, một bình cắm nhang làm lễ puja. Dường như mọi vật được giữ y như xưa, trong khi thân xác ngài được mang đi. Rồi tôi nghĩ thử xem ảnh hưởng của ngài còn ở đây chăng như cảm thấy có, và sẽ hỏi thầm một câu trong trí.
Thế nên tôi tham thiền một lúc lâu, cho đến khi tôi cảm biết quả thật là tiếp xúc được với ngài và làm như thấy ngài ở cõi cao. Tôi giữ trong trí câu hỏi xin ngài nêu ra nguyên lý về sự phát triển tinh thần. Sau một lúc những lời này đến với cái trí của tôi không cần chút cố gắng nào.
–  Tự giam cầm bên trong bạn như là sự sáng là năng lực vô cùng. Hãy giải thoát nó. Hãy để sự sáng chiếu rạng.
Những lời này không có vẻ gì đáng nói cho vài người, nhưng nó cho ảnh hưởng hết sức sâu xa và soi sáng cho tôi. Tôi dùng nó làm câu giới thiệu cho quyển sách nhỏ của tôi về tham thiền, A Yoga of Light, được viết một lúc ngắn sau kinh nghiệm ấy.
Trong lúc được chở đi quanh Arunachala sau khi đến thăm Ashram của Maharishi, tôi quay sang mấy người bạn Ấn Độ, một người trong bọn là luật sư sống ở Tiruvannamalai, và hỏi có đạo sĩ nào ngụ ở đồi này. Anh trả lời có những vị ở đây còn cao hơn Maharishi. Khi tôi hăm hở hỏi các vị đó ở đâu, anh đáp họ không cho dân chúng thấy, nhưng người ta biết là họ ở cao trên đồi. Vài người chăn dê và dân làng đôi khi gặp các vị này, và còn mang thức ăn cho họ. Rồi tôi muốn biết thêm là liệu có vị nào chịu cho gặp. Các bạn tôi nhìn nhau một lúc và đáp là có một vị tên Shiva, người mà họ cảm thấy chắc là chịu tiếp tôi. Lập tức chúng tôi quyết định đi ngay.
Lái xe vòng quanh đồi, chúng tôi rời đường lớn rẽ vào đường nhỏ giữa hai hàng cây, gần hơn về đồi Arunachala. Sau rốt chúng tôi đến một vùng đất trống trong rừng, nơi có một hồ chứa nước đáy lát xi măng hay đá. Khi ra khỏi xe, một người bạn của tôi nói to là Shiva ở bên phải, và tôi thấy một người gần như để trần toàn thân, đứng dậy khi chúng tôi đi tới. Ông lớn tuổi, thẳng lưng, sức khỏe rất khang kiện, da như ửng sáng với sinh lực.
Ông ốm người, tóc trắng dài được chải xõa xuống vai, râu mép và râu cằm hơi dài cũng màu trắng. Nhưng mắt ông sáng lên với niềm vui và tình thân ái, và lại có cùng cái ánh sáng bên trong mà tôi đã nói; thực vậy, nhưng sẽ nói thêm về sau. Trọn hình dáng chứng tỏ ông đã thắng được các điểm yếu của loài người và có sự tự chủ, như một vì vua. Bước đi tỏ ra không có đau yếu, bị giới hạn hay sợ hãi bất cứ chuyện gì.
Ông tiếp đón chúng tôi gần chòi của ông có mái lợp lá để trống các bên. Chúng tôi ngồi trên sàn xi măng còn ông trên bệ xi măng uốn vòng. Ông tự tay cất lều và lót sàn hồ nước. Ông mỉm cười với chúng tôi, và các bạn giới thiệu tôi và hỏi tôi có thể nói chuyện với ông. Ông cười rạng rỡ, bắng lòng. Thế nên chúng tôi bắt đầu nói nhiều chuyện tinh thần, yoga, triết học, và những điều tôi thích thảo luận.
Ông rất thân thiện, và vào một dịp khác khi tôi trở lại, ông tỏ ra lòng quí mến nồng ấm với tôi.Cuối cùng tôi làm gan hỏi câu quan trọng nhất của mình. Nếu một người đã học cách tham thiền, và có thể giữ tâm thức hòa hợp một lúc lâu đáng kể với Tinh ThầnTối Thượng hay Atma, cái tinh túy của vũ trụ, thì bước kế là gì ? Làm sao mất ý thức về thân xác như ông và nhiều người khác đã làm được, và thành tan biến vào Paramatma Đại Ngã?
Ông phá ra cười tôi lớn, và bảo là không thể nói tôi nghe về điều ấy. Tôi phải học điều đó và được chỉ cách, mà không phải chỉ nghe nói mà thôi. Rồi ông lặng thinh trở lại. Lẽ tự nhiên ông nói qua thông dịch viên vì ông chỉ nói tiếng địa phương là Tamil. Đột nhiên ông quay sang nhìn tôi và hỏi tôi có thể ở với ông bao lâu. Tôi suy nghĩ một lúc và nhận ra là có thể đi xe hơi cuối tuần, từ Madras tới đây chặng đường dài một trăm rưỡi dặm (240 km), nếu bạn hữu chịu đưa tôi đi về. Nên tôi nói chỉ có thể đến một ngày. Ông bảo vậy không đủ giờ nhưng cứ đến.
Vắn tắt câu chuyện thì tôi đến. Một đệ tử của ông nói rành Anh văn có mặt ở đó vào lần sau tôi đến, trước kia anh là công chức và cũng có ước vọng tương tự. Anh đã bỏ đời sống ấy để thành người khổ hạnh, mà trông anh rất đẹp đẽ. Anh đặt tên cho mình là Asangha Maya (có nghĩa không vướng vào ảo ảnh maya). Chúng tôi thành bạn rất thân thiết trong hai mươi bốn giờ đó.
Shiva, người ta gọi ông bằng tên ấy, cho tôi vào chỗ riêng của ông, mà giản dị chỉ là căn chòi xi măng này là chỗ ông ngủ.Ở đó ông chỉ dẫn tôi vài điều. Tôi phải nhìn nhận là chúng không phải để làm ta nhập định vào Samadhi, hay là có thể tôi không hiểu chúng. Nhưng đó là hiểu biết cộng với động tác mà tôi không được phép mô tả, để chìm sâu hơn vào thiền, và để khơi dậy luồng hỏa hầu Kundalini. Bởi tôi đã đạt phần nào việc này, ảnh hưởng tỏ ra thật mạnh mẽ cho tôi. Luồng Kundalini gần như phụt lên, và toàn thân bị điện tràn lan trước mặt ông. Người đệ tử ngồi cạnh bên tôi, và khi bàn tay hay cánh tay chúng tôi chạm nhau, kêu lên là tôi chứa đầy điện, vì anh cảm thấy điện lực từ tôi bắn ra.
Shiva đi ngủ trong chòi của ông, còn Asangha Maya và tôi ngủ đêm ở ngoài. Tôi có đem theo giường và mùng, còn anh nằm ngay trên nền xi măng, do đã tập được thói quen ngủ bất cứ chỗ nào, anh nói. Nhưng chúng tôi không ngủ. Tôi tiếp tục làm theo chỉ dẫn của anh cách thức đã học, cho tới khi khá thành thạo tuy nó không có gì khó.Tôi hỏi anh đủ thứ và chúng tôi nói về đời sống tinh thần suốt đêm, trong đêm hè Ấn Độ ấy.
Đó một kinh nghiệm tuyệt vời không thể nào quên được, tất cả xẩy ra bên trong hào quang của Shiva mà tôi cảm nhận là vị rất cao cả.Tôi nẩy tình quí mến ông rất nhiều và ông cũng vậy với tôi, như thấy biểu lộ về sau. Ông viết cho tôi qua thông dịch viên, và tôi cho ông. Khi các bạn tôi đến gặp ông, ông hỏi thăm về tôi. Các tín đồ khác của ông ở những nơi khác nhau trên thế giới cũng có những đặc ân này. Tôi tiếp xúc ít nhiều với ông luôn về mặt tinh thần. Đây là một nhân vật đã thực sự làm những điều mà chúng ta đọc về, và được ở trong sự hiện diện đẹp đẽ của ông là chuyện tuyệt vời.
Trong một dịp khác, được nghe là có một đạo sĩ đến thăm Conjeeveram, tôi nhờ một hội viên của hội ở nơi đó, hỏi xem ông có chịu tiếp học viên của Trường Minh Triết. Vị ấy không ai khác hơn là Shri Shankaracharya đang tại chức, vị đứng đầu về hành chánh và tinh thần của trọn trung tâm tu viện, gọi là mutt, của đền trung tâm xưa tại Conjeeveram.
Chức vụ này được truyền không đứt đoạn từ ngày đức Shri Shankaracharya khởi sự, cách đây khoàng hai ngàn năm trăm năm theo Subba Row, một hội viên của Hội và là nhà huyền bí học có liên can với hội chúng ta. Về mặt huyền bí, Đức Shri Shankaracharya được xem là hiện thân của một trong các đấng Hỏa Quân Lord of the Flame, tái sinh sau đức Phật để chữa lại vài ý niệm sai lầm, và sử dụng các thể thanh của đức Phật. Ngoài những chuyện khác, ngài thành lập bốn đền trung tâm như vậy và truyền chức cho các đạo sĩ đầu tiên, bắt đầu chuỗi liên tục không gián đoạn đại diện cho ngài, mang danh hiệu của ngài và chủ trì các trung tâm này liên tiếp qua bao thời đại. Theo tôi biết, hệ thống này vẫn được duy trì và các vị cao cả giữ những vị trí ấy, được xem là chức vị cao nhất ở Ấn. (Mời bạn đọc lại bài Điềm Sách PST số 55, về một vị Shri Shankaracharya của thế kỷ 20, được giáo dục tại các đại học tây phương, rất thú vị.)
Lời xin diện kiến của chúng tôi được chấp thuận. Chúng tôi đến vào một sáng chủ nhật và tới giờ được đưa vào gặp ngài. Ngài chọn một vườn có tường bao bọc ở bên ngoài thành phố Conjeeveram khoảng một dặm. Đó là chỗ linh thiêng, vì một đạo sĩ đã sống lâu năm và cũng qua đời ở đó. Chúng tôi qua cổng vào vườn, mới đầu thấy như không có ai cho tới khi ở một bên ngang qua vườn, chúng tôi thấy có một người ngồi trên chiếc chiếu dưới cái cây. Ngài mặc y vàng và có một vòng lá quanh đầu. Trước mặt ngài có trải chiếu Nhật và chúng tôi được đưa vào đó. Học viên người Âu chào ngài theo kiều thông thường, ai là người Ấn thì sấp mình đảnh lễ trước mặt ngài.
Chúng tôi ngồi xuống và tới tư cách là trưởng nhóm, tôi ngỏ lời cám ơn ngài đã cho gặp mặt, thưa với ngài bằng danh hiệu ‘Ngài - Your Holiness’, là tước vị của ngài trong dân chúng, và giới thiệu chúng tôi là ai. Ngài nói Anh ngữ rất khá, nhưng có một thông dịch viên giúp, và ngài bắt đầu hỏi lần lượt tất cả học viên. Chuyện thú vị là những câu hỏi này hướng về chi bộ của họ, có bao nhiêu hội viên, họ làm gì, dạy gì…
Về sau, tất cả chúng tôi đều chứng nhận là được tắm mình trong một bầu không khí an bình, trước sự hiện diện của vị có hình dáng thanh mảnh  này. Nhin vào ngài bạn sẽ không hề nghĩ, là ngài nắm giữ một trong các chức vị cao nhất trong hàng giáo phẩm tại Ấn, vì ngài thật khiêm tốn, nhưng quả thật ngài nắm chức ấy. Tới cuối, tôi hỏi là ngài có muốn cho tất cả bọn tôi mang một thông điệp gì về cho thế giới chúng tôi.
Ngài có thói quen là nhắm mắt và lặng thình một hồi lâu sau mỗi câu hỏi, rõ ràng là để tâm thức quay trở lại từ nơi mà dường như nó thường sống, ở cõi cao hơn. Tôi thấy đó là chuyện rất đáng nói về ngài. Mi mắt khép hờ lâu cho tới khi ngài có sự chú ý trở lại.Rồi mắt mở ra và sống động.

(còn tiếp)